IX- Thủy Triều Đang Lên (Phần 2)

(Dịch giả MNYN : Xin đọc giả phổ biến sâu rộng trong dân chúng Việt Nam tuyệt đối KHÔNG in ra thành sách với mục đích thương mại)
===========================================

p268

T cá nguyt liu

         "Nhất nhật tù, thiên thu tại ngoại",
         Cổ nhân chi thoại bất sai ngoa!
         Tứ nguyệt phi nhân loại sinh hoạt,
         Sử dư tiều tụy thập niên đa.
   Nhân vị:
         Tứ nguyệt ngật bất bão,
         Tứ nguyệt thụy bất hảo,
         Tứ nguyệt bất hoán y,
         Tứ nguyệt bất tẩy tảo.
   Sở dĩ:
         Lạc liễu nhất chích nha,
         Phát bạch liễu hứa đa,
         Hắc sấu tượng ngã quỷ,
         Toàn thân thị lại sa.
   Hạnh nhi:
         Trì cửu hoà nhẫn nại,
         Bất khẳng thoái nhất phân,
         Vật chất tuy thống khổ,
         Bất động dao tinh thần.
Bn tháng ri
                                                           Bn dch ca Nam Trân:

                                 "Một ngày tù, nghìn thu ở ngoài",
                                 Lời nói người xưa đâu có sai;
                                 Sống khác loài người vừa bốn tháng,
                                 Tiều tuỵ còn hơn mười năm trời.
                           Bởi vì:
                                 Bốn tháng cơm không no,
                                 Bốn tháng đêm thiếu ngủ,
                                 Bốn tháng áo không thay,
                                 Bốn tháng không giặt giũ.
                           Cho nên:
                                 Răng rụng mất một chiếc,
                                 Tóc bạc thêm mấy phần,
                                 Gầy đen như quỷ đói,
                                 Ghẻ lở mọc đầy thân.
                           May mà:
                                 Kiên trì và nhẫn nại,
                                 Không chịu lùi một phân,
                                 Vật chất tuy đau khổ,
                                 Không nao núng tinh thần.

Bấy giờ cơ thể ông ta bị gầy mòn và phủ đầy những vết loét, tóc của ông ta đã bắt đầu ngã xám, và răng của ông ta đang rơi ra. Tuy nhiên, ông ta từ chối tuyệt vọng:

Bnh trng

        Ngoại cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt,
        Nội thương Việt địa cựu sơn hà;
        Ngục trung hại bệnh chân tân khổ,
        Bản ưng thống khốc khước cuồng ca.
m nng
                                                           Bn dch ca Nam Trân:

                                  "Ngoại cảm" trời Hoa cơn nóng lạnh,
                                  "Nội thương" đất Việt cảnh lầm than;
                                  Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,
                                  Đáng khóc mà ta cứ hát tràn!

Sau một lần hoãn lại khác trong nhiều tuần, nhân viên truy tố trưởng của tòa án quân sự ở Guilin(pc 07) cuối cùng tiếp tục trường hợp của Hồ Chí Minh. Theo cuộc thẩm vấn, ông Hồ thừa nhận có những sự kết nối với phong trào Cộng sản ở Đông Dương, nhưng phủ nhận rằng ông ta có bất kỳ mối quan hệ thân thiết nào với ĐCSTQ. Mặc dù tuyên bố mình là một tù nhân chính trị, tòa án ra lệnh cho ông ta bị chuyển trở lại Trụ sở Chỉ huy Quân sự Quân đoàn Bốn ở Liuzhou(pc 11) để xét xử. Lúc chuyến trở đến nơi đó của ông ta vào đầu tháng Hai năm 1943, Zhang Fakui(pc 12) giao trường hợp nầy cho Bộ Chính trị.12

* * *

Khi nghe tin về vụ bắt giữ của Hồ Chí Minh, Lê Quang Ba rời khỏi Bamong ngay lập tức đến Jingxi.(pc 08) ông Hồ yêu cầu anh ta mang lá thư đến Ủy ban Trung ương Đảng ở Việt Nam. Khi tin tức về việc bị giam giữ của ông Hồ đến Cao Bằng vào cuối tháng Mười, những người lãnh đạo Đảng quyết định huy động một cuộc biểu tình công khai chống lại việc bắt giữ ông ta. Họ cũng đã quyết định viết thư cho những cơ quan tin tức lớn như là UPI, Reuters, Tass, và Agence France Presse, báo động họ về tình hình và yêu cầu họ can thiệp với chính phủ Trung Quốc để có được sự phóng thích của ông Hồ. Một điện tín đến đại diện của Tass ở Chongqing,(pc 04) được ghi là ngày 15 tháng Mười Một,

p269

chỉ đơn giản xác định Hồ Chí Minh như là “một trong những thành viên hàng đầu thuộc phân bộ Việt Nam của Liên đoàn Quốc tế Chống xâm Lược” là người có được “uy tín cao” trong dân. Điện tín tuyên bố rằng hội đoàn có số thành viên 200.000 người. Đồng thời, những báo động tương tự được nhận bởi tất cả các sở điện báo nước ngoài ở Chongqing, tuy nhiên, Hồ Chí Minh đã ở trong nhà tù huyện Guilin(pc 07) rồi.

Trong khi đó, Hoàng Đình Giong cán bộ dân tộc thiểu số của ĐCSĐD(pc 01) đã được gởi đến Trung Quốc để chuyển bức điện tín yêu cầu sự phóng thích của ông Hồ đến người con trai của ông Yat-sen,(pc 06)và Chủ tịch đương thời của Lập pháp Viện Trung Hoa Dân quốc ở Chongqing, thay mặt cho phân bộ Việt Nam của Liên đoàn Quốc tế Chống xâm Lược. Ông Sun Ken đã nói công khai ủng hộ vấn đề giải phóng những vùng lãnh thổ thuộc địa ở châu Á sau khi kết thúc chiến tranh Thái Bình Dương, và có lẽ sẽ có cảm thông với thông điệp:

Tổng thống Sun
Đại diện của chúng tôi Hu K’o Minh bị bắt ở Jingxi(pc 08) trên đường đến Chongqing để trương biểu ngữ và bày tỏ lòng kính trọng đối với Tổng tư lệnh Chiang.(pc 03)Chúng tôi khuẩn khoản ông đánh điện tín cho chính quyền địa phương để thả ông ta ngay lập tức.

Ông Sun Ke, là người có lẽ không biết Hu K’o Ming là ai, chuyển bức điện đến Wu Tiecheng, Tổng thư ký của Ban Chấp hành Trung ương Quốc Dân Đảng. Vào ngày 09 tháng Mười Một, ông Wu đánh điện tín đến chính quyền tỉnh ở Guilin,(pc 07) cũng như Trụ sở Chỉ huy Quân sự Quân đoàn Bốn của Zhang Fakui(pc 12) ở Liuzhou,(pc 11) yêu cầu họ điều tra sự việc và, nếu thích hợp, ra lệnh cho sự phóng thích của ông Hồ. Không lệnh nào có thể thi hành trên vấn đề này tại thời điểm đó, tuy nhiên, vì Hồ Chí Minh vẫn trên đường từ Debao(pc 09) đến Nanning(pc 13) và chưa đến Liuzhou.13

Trong khi những người lãnh đạo Đảng bên trong Đông Dương đang cố gắng để đạt được sự phóng thích của Hồ Chí Minh, họ nghe được tin chấn động. Vào thời điểm nào đó trong suốt mùa đông của giai đoạn 1942-1943, một thành viên trẻ của Đảng vốn đã được gởi đến phía nam Trung Quốc để xác định vị trí ông Hồ và báo cáo lại cho những người lãnh đạo Đảng về tình trạng của ông ta, đã đến Cao Bằng với một báo cáo rằng Hồ Chí Minh đã chết. Anh ta đã biết được trong khi ở Liuzhou, rằng ông Hồ đã chết trong tù. Sau khi gởi đi một tin nhắn để báo động Uỷ ban Trung ương ở trụ sở chính gần Hà Nội, những người lãnh đạo Đảng ở Việt Bắc giao Phạm Văn Đồng lãnh nhiệm vụ tổ chức tang lễ.

Một vài tuần sau đó, tuy nhiên, một tạp chí đến từ Trung Quốc. Ở bên lề được viết một số ít các ký tự Trung Quốc theo một cách viết quen thuộc: “Gởi đến những người bạn thân mến của tôi –sức khỏe tốt và lòng can đảm trong công tác của các bạn. Chúc luôn khoẻ.” Một đoạn thơ ngắn được kèm theo:

p270

Những đám mây ôm lấy những ngọn đồi, 
         Những ngọn đồi siết chặt những đám mây. 
         Giống như một tấm gương vốn không có gì có thể mờ, 
         con sông tuôn chảy dòng nước trong trẻo của nó. 
         Trên đỉnh của Dãy núi Gió Tây, 
         Đơn độc, tôi đi dạo, trái tim tôi rung động. 
         Lướt nhìn qua bầu trời Nam, 
         Tôi nghĩ về những người bạn của tôi.

Vượt qua niềm vui, những người lãnh đạo Đảng triệu tập người cán bộ đó để có lời giải thích. “Chính tôi cũng không hiểu,” anh ta bày tỏ. “Thống đốc Trung Quốc rõ ràng đã nói với tôi rằng Bác Hồ đã chết.” Khi người cán bộ được yêu cầu nhớ lại những lời chính xác của Thống đốc, tuy nhiên, bất ngờ trở nên rõ ràng rằng anh ta đã hiểu lầm những chữ Trung Quốc “được rồi, được rồi” (shile, shile), cho là “chết, chết” (sile, sile).14

* * *

Ở Liuzhou,(pc 11) Hồ Chí Minh bị bắt giữ trong một nhà tù quân sự trong khuôn trại của Bộ Chính trị. Lúc bấy giờ –như ông ta viết trong một bài thơ vào thời điểm đó– ông ta cảm thấy giống như một trái banh, đang dội qua lại giữa Guilin,(pc 07) Liuzhou. Trong suốt năm tháng qua, ông ta đã trải qua 18 nhà tù trong 13 huyện khác nhau ở phía nam Trung Quốc. Mặc dù ông Hồ vẫn bực tức vì bị tước đoạt sự tự do của mình, như là một tù nhân chính trị, ông ta được đối xử tốt hơn. Thực phẩm thì đầy đủ, ông ta không còn bị xích vào ban đêm, và ông ta thậm chí được phép đọc báo và sách. Theo định kỳ, ông ta được cho ra khỏi xà lim mình để thư giản tay chân và khuây khỏa chính mình, và có lần, thậm chí ông ta còn được hớt tóc và cho tắm bằng nước nóng. Ông ta cũng có cơ hội tốt hơn để giữ liên lạc với những cộng sự viên mình ở Việt Nam và thông báo cho họ về tình trạng của ông ta, vì vậy ông ta thường gởi cho họ những bản sao của tạp chí và sách với những ghi chú đã được viết bằng mực không thấy được gồm bọt nước gạo đun sôi, trên những lề ngoài trang giấy. Đối với những người Trung Quốc bắt bớ của mình, ông ta phô bày hình ảnh của một học giả, lịch sự và trầm lặng. Để cho qua thời gian, ông ta phiên dịch tác phầm nổi tiếng của Sun Yat-sen(pc 06)Nguyên lý Tam dân ra tiếng Việt.15

Vào thời điểm nào đó trong suốt mùa xuân năm 1943, Tướng Zhang Fakui(pc 12) khám phá chân dạng thực sự của tù nhân rắc rối của mình, hoặc ít nhất xác nhận rằng ông ta là một người Cộng sản. Làm cách nào ông ta biết được một chính xác là một vấn đề còn phỏng đoán. Hoàng Văn Hoan, một cộng sự viên của Hồ Chí Minh cho rằng chân dạng của Hồ Chí Minh như là một mật vụ Quốc tế cộng sản được tiết lộ bởi Trần Bảo, một người Việt theo chủ nghĩa dân tộc lâu năm vốn là người cư ngụ trong khu vực và hy vọng ông Hồ bị xử tử.

p271

Nhưng Tướng Liang Huasheng, sau đó là Giám đốc của Bộ Chính trị Chỉ huy Quân sự Quân đoàn Bốn, tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn nhiều năm sau đó rằng trong cuộc hội thoại của mình với ông Hồ, ông ta đã ngày càng được thuyết phục về những kiến thức Cộng sản của tù nhân của ông ta và đề nghị rằng ông Hồ nên bị loại bỏ. Theo ông Liang, tuy nhiên, đề nghị của ông ta bị từ chối bởi chính quyền trung ương ở Chongqing,(pc 04) mà chính quyền, mặc dù bấy giờ chính trung ương nắm giữ tin tức về những kiến thức chính trị thực tế của ông Hồ, đã ra lệnh rằng liệu có thể ông ta được “chuyển đổi.”16

Sự quyết định của chính quyền trung ương về vấn đề này có thể trước tiên đã bị ảnh hưởng bởi Zhou Enlai,(pc 05) vốn vẫn đang phục vụ như là người đứng đầu cơ quan liên lạc của ĐCSTQ ở Chongqing. Khi ông Zhou dần nhận biết vào mùa thu năm 1942 là Hồ Chí Minh đã bị bắt, ông ta nêu lên vấn đề với Tướng Feng Yuxiang (i.e. Phùng Ngọc Tường), vị lãnh chúa nổi tiếng của Trung Quốc và là một trong những đối thủ hàng đầu của Chiang Kai-shek(pc 03) trong suốt những năm 1920s và 1930s. Ông Feng, người đã thường kỳ ve vãn với những người Cộng sản nhưng hiện tại là một thành viên có ảnh hưởng của sự ban lãnh đạo của chính phủ Quốc Dân Đảng, đã giao trường hợp nầy cho cố vấn Sô-Viết ở Chongqing và sau đó nói chuyện với Phó Tổng thống của Chiang Kai-shek, Li Zongren (i.e. Lý Tông Nhân). Họ cùng nhau tiếp cận ông Chiang và kêu nài cho việc phóng thích ông Hồ. Theo lời tường thật của một người Trung Quốc, ông Feng thì mạnh mẽ thay mặt ông Hồ, lập luận rằng ngay cả khi Hồ Chí Minh là một thành viên của phong trào Cộng sản Việt Nam, quan điểm đó không rõ ràng. Sau hết, ông ta tranh luận, những đại diện Cộng sản từ những ngoại quốc khác, bao gồm cả Liên Xô, không bị giam giữ. Điểm mấu chốt, ông Feng khẳng định, là dân Việt Nam ủng hộ cuộc chiến đối kháng của Trung Quốc chống lại Nhật Bản. Nếu Hồ Chí Minh là một người bạn, ông ta không nên bị đối đải như là một tội phạm. Điều đó chỉ đơn giản khiến cho Trung Quốc mất đi sự ủng hộ quốc tế và sự cảm thông và làm nên một sự giả tạo về cuộc đấu tranh chống Nhật của Trung Quốc. Li Zongren đồng tình với sự đánh giá của ông Feng, đề nghị rằng chính quyền trung ương nên giao vấn đề cho nhà chức trách ở Guangxi(pc 14) giải quyết. Ông Chiang miễn cưỡng đồng ý, và đánh điện tín đến trụ sở Chỉ huy Quân sự Quân đoàn Bốn để ra lệnh cho việc phóng thích của ông Hồ dưới sự giám sát trong khi cố gắng thuyết phục ông ta hợp tác với những mục tiêu của chính quyền tỉnh Chongqing.17

Ảnh hưởng gì đó do bức điện đối với Tướng Zhang Fakui(pc 12) ở Liuzhou(pc 11) thì không chắc chắn. Trong những cuộc phỏng vấn được tổ chức ở Hoa Kỳ một thời gian dài sau chiến tranh, ông Zhang phủ nhận rằng những hành động của mình trong vấn đề này đã được thúc đẩy bởi những mệnh lệnh từ các cấp cao hơn. Như ông ta giải thích điều đó, khi mà ông ta phát hiện ra rằng tù nhân của ông ta thực sự là Nguyễn Ái Quốc, một thành viên có ảnh hưởng của phong trào Cộng sản Việt Nam, ông ta ra lệnh cho vị Giám đốc mới của Bộ Chính trị của mình, Tướng Hou Zhiming, quyến dụ ông Hồ vào hợp tác với Chiến khu Quân sự Quân đoàn Bốn với dự kiến có được sự phóng thích sau cùng của mình.

p272

Trong những cuộc hội thoại với ông Hồ, ông Zhang dần nhận thức được những khả năng đáng kể của ông Hồ và những cảm tính chống Pháp đầy nhiệt thành của ông ấy và rõ ràng đã bị thuyết phục bởi nhận xét của Hồ rằng mặc dù ông ta là thành viên của Đảng Cộng sản Đông Dương, mục tiêu trước mắt của ông ta là tự do và độc lập cho đất nước mình. Ông Hồ hiển nhiên bày tỏ ý muốn cung cấp ông Zhang sự hỗ trợ trong việc tổ chức lại phong trào kháng chiến Việt Nam ở phía nam Trung Quốc và đảm bảo với người bắt giữ mình rằng một xã hội Cộng sản sẽ không được thành lập tại ở Việt Nam trong ít nhất 50 năm sau.18

Những động cơ của ông Zhang về việc quyết định phóng thích tù nhân của ông ta chắc chắn đã được kết nối với những mục tiêu chính trị lâu dài của mình. Là người gốc Guangdong (i.e. Quảng Đông) và là một cựu chiến binh của đoàn Viễn chinh Bắc phương trong giữa những năm 1920s, ông Zhang là một vị chỉ huy quân sự được kính trọng vốn đã giữ cách biệt từ những thủ đoạn chính trị của cả Chiang Kai-shek(pc 03) và ĐCSTQ.(pc 02)Ông ta thì thù nghịch đối với cả Nhật Bản và chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương, và có lẽ cảm thông với ước muốn của dân Việt Nam cho độc lập dân tộc. Như là vị chỉ huy của Chiến khu Quân sự Quân đoàn Bốn ở Liuzhou,(pc 11) ông ta chịu trách nhiệm về việc chuẩn bị phát động một cuộc tấn công vào lực lượng Nhật ở Đông Dương trước khi kết thúc chiến tranh. Nhằm hướng về giai đoạn cuối đó, ông ta đã tìm cách tổ chức lực lượng Việt Nam Dân quốc ở miền nam Trung Quốc trong suốt thời gian đầu những năm 1940s và đào tạo họ cho hoạt động trong tương lai bên trong Đông Dương.

Tuy nhiên, kế hoạch của Zhang Fakui(pc 12) nhằm tổ chức những phần tử Việt Nam thuộc dân tộc chủ nghĩa thành một công cụ hiệu quả đã gặp phải vấn đề khó khăn. Sự hợp tác giữa những nhóm dân tộc và ĐCSĐD(pc 01) qua việc tạo ra của Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam đã đi đến kết thúc trước cuối năm 1941, khi những người lãnh đạo VNQDĐ(pc 19) đã phát hiện ra chân dạng thực sự của những cộng sự viên họ là Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp và đuổi họ ra khỏi tổ chức. Ngay sau đó, tính bè phái giữa những người quốc gia hàng đầu như Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần, và Nghiêm Kế Toại dẫn đến sự sụp đổ thực sự của hội đoàn. Một trong những người tài trợ của Ủy ban, Trương Bội Công, chính ông ta bị bắt giữ bởi chính quyền địa phương về cáo buộc tham nhũng.

Vào mùa hè năm 1942, Zhang Fakui(pc 12) quyết định thử lại một lần nữa, điều hành những nhà lãnh đạo dân tộc để hình thành một tổ chức mới, lần này không có bất kỳ sự tham gia của Cộng sản, được gọi là Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội, thông thường được gọi là Đồng minh Hội. Người phụ tá của ông Zhang, Tướng Hou Zhiming, được chọn như là cố vấn Trung Quốc cho tổ chức, mà nó tổ chức cuộc họp đầu tiên ở Liuzhou(pc 11) vào đầu tháng Mười năm 1942. Đồng minh Hội, tuy nhiên, không có nhiều thành công hơn so với hội đoàn trước đó của nó,

p273

như những kế hoạch được khuyến khích bởi Tướng Zhang triệu tập một hội nghị quốc gia vào đầu tháng Chín năm 1943 bị chìm trong những cuộc tranh luận bè phái giữa những thành viên hàng đầu.

Chính là hy vọng rằng Hồ Chí Minh có thể cung cấp tia lửa tiếp sinh lực cho phong trào đấu tranh của Việt Nam Dân quốc ở miền nam Trung Quốc nên ông Zhang quyết định phục hồi sự tự do của ông Hồ. Vào ngày 10 tháng Chín, ông Hồ được thả ra khỏi tù nhưng với sự tự do hạn chế của phong trào. Một thành viên của Bộ Chính trị thuộc Bộ Chỉ huy Quân sự Quân đoàn Bốn vào thời điểm đó, sau này nhớ lại rằng một ngày vào mùa thu nọ, tù nhân đột nhiên bước vào phòng ăn của Bộ và ngồi xuống với Hou Zhiming và các quan chức Trung Quốc khác. Từ thời điểm đó trở về sau, cựu tù nhân, là người được xưng hô bởi người quen của ông ta là “Bác Hồ” (Hu Lao Bo, theo tiếng Hoa), không còn bị giữ dưới khóa và chìa, nhưng được phép luân chuyển tự do trong phạm vi khuôn trại và thậm chí tản bộ bên ngoài khu vực.19

Trong suốt mùa thu năm 1943, Hồ Chí Minh dần dần bắt đầu đắm mình trong những hoạt động chính trị địa phương. Như một phương tiện đôn đốc các nhóm Việt Nam Dân quốc để hồi sinh những cố gắng của họ nhằm tạo ra một tổ chức có hiệu quả, ông Zhang tuyên bố rằng ông ta dự định nhận lãnh sự quan tâm trực tiếp về Đồng minh Hội và thay thế Hou Zhiming bằng người ủy quyền của ông ta, Tướng Xiao Wen, như là cố vấn Trung Quốc của hội đoàn, ông Xiao, một người gốc Guangdong(pc 15) có người cha là Hoa kiều, người ta đồn chính ông ta có cảm tình với những người Cộng sản. Để mở rộng căn cứ của tổ chức, ông Zhang ra lệnh rằng tất cả những học viên tốt nghiệp của lớp huấn luyện cho người Việt ở Liuzhou(pc 11) trở thành những thành viên.

Hồ Chí Minh bây giờ bắt đầu đóng một vai trò tích cực trong Đồng minh Hội; vào tháng Mười Một, theo lời yêu cầu của Tướng Zhang, ông ta được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch của hội. Việc bổ nhiệm chắc chắn tạo ra một vài khó chịu cho Nguyễn Hải Thần, sau đó giữ chức Chủ tịch của tổ chức và là đối thủ cay đắng của ông Hồ kể từ những ngày của họ ở Canton (i.e. Quảng Châu) trong suốt thập niên 1920s. Tuy nhiên ông Thần thì miễn cưỡng làm tức giận người bảo trợ có quyền lực của mình và nuốt vào sự bực bội của ông ta. Vào tháng Mười Hai, tại một bữa tiệc được tổ chức bởi Tướng Hou Zhiming và được tham gia bởi cả hai người Việt, Nguyễn Hải Thần chào mời nâng ly: “Hou Zhiming, Hồ Chí Minh, hai đồng chí với một cam kết chung để giác ngộ.” Không chịu thua, Hồ Chí Minh nhanh chóng trả lời: “Anh bạn là một nhà cách mạng, tôi là một nhà cách mạng, tất cả chúng ta là những nhà cách mạng, chúng ta chắc chắn sẽ thay đổi những vận mệnh của mình.”20

Đối với sự khuyến khích của ông Zhang, đến cuối thu ông Hồ tích cực nhúng tay vào tổ chức lại Đồng minh Hội. Ông ta bấy giờ đã chuyển khỏi khuôn trại của Bộ Chính trị và được phép sống ở trụ sở chính của hội đoàn. Ông ta giảng những bài thông thường về những công việc địa phương và quốc gia đến những khán giả khắp thành phố,

p274

cũng như lớp huấn luyện người Việt dưới sự điều hành của Bộ Chỉ huy Quân sự Quân đoàn Bốn. Ông ta hứa với những khán giả say mê của mình rằng sau cuộc bại trận của Nhật, một Việt Nam thống nhất, hòa bình, độc lập, và dân chủ chắc chắn sẽ nổi lên trong khu vực Đông Nam Á. Có một lần, ông ta ca ngợi Trung Quốc như là một lực lượng lớn vì hòa bình, và là người anh lớn của dân Việt Nam. Ông ta dự đoán rằng những Đồng minh sẽ hoàn tất chiến thắng của họ trên Nhật Bản trong vòng một năm hoặc lâu hơn, và Trung Quốc sau đó có thể giúp người Việt Nam khôi phục nền độc lập hoàn toàn của họ bằng biện pháp hòa bình và xây dựng một xã hội.21

Sau khi ngày càng tăng thêm phụ thuộc vào Hồ Chí Minh như một công cụ của mình để đem lại sức sống mới cho Đồng minh Hội, Zhang Fakui(pc 12) tiếp xúc ông ta để thực hiện một cố gắng lần thứ hai nhằm triệu tập một hội nghị quốc gia. Ông Hồ đồng ý, và một cuộc họp thảo luận sự chuẩn bị được tổ chức tại Liuzhou(pc 11) vào cuối tháng Hai năm 1944. Tại cuộc hội, Hồ đề nghị rằng tổ chức nên mở rộng phạm vi chú trọng của nó và bao gồm những đại diện từ Mặt trận Việt Minh và những tổ chức quần chúng bổ sung, cũng như từ những nhóm khác ở Đông Dương được nhận dạng bằng nguyên nhân chống phát-xít. Đối với nỗi lo sợ rằng liên minh sẽ bị thống trị bởi các ĐCSĐD,(pc 01) ông ta đã chỉ ra rằng tất cả những đảng phái và tổ chức trong nước, chính là Đảng Cộng sản Đông Dương vốn chiếm được ảnh hưởng và tính minh bạch nhất. Dân Việt Nam, ông ta tuyên bố, không có gì phải sợ chủ nghĩa cộng sản, mà nó sẽ dần dần đưa tư tưởng về bình đẳng kinh tế khắp cả thế giới, cũng giống như nền dân chủ đã từng truyền bá khái niệm về bình đẳng chính trị khắp châu Âu sau cuộc Cách mạng Pháp năm 1789. Kết quả sẽ là một nhà nước tương lai của sự hiệp nhất thế giới vĩ đại. Ông Hồ nói thêm rằng trong quá khứ, tất cả các đảng phái chính trị Việt Nam đã từng trong tình trạng cạnh tranh nhau. Bây giờ họ sẽ thống nhất nhằm mục đích đấu tranh chống áp bức và đạt được mục tiêu duy nhất mà nó thúc đẩy tất cả họ –để giải phóng đất nước mình và dân tộc mình. Để làm được như thế điều đó sẽ được thực hiện theo khuynh hướng chung của nhân loại, kể từ khi Trung Quốc với Nguyên tắc Tâm dân của nó, đế quốc hoàng gia Anh, Cộng sản Nga, và tư bản Mỹ bây giờ là những đồng minh chống lại kẻ thù chung. Tướng Zhang đồng ý với những cảm tính lớn nầy và mời ông Hồ tiến hành trước qua những kế hoạch triệu tập Đại hội của Đồng minh Hội vào cuối Ba.22

Nhưng ý định của Hồ Chí Minh bao gồm những đại diện của Mặt trận Việt Minh trong Đại hội đã không tạo vị thế ổn thỏa với nhiều người trong số những thành viên không-Cộng-sản của Đồng minh Hội, vốn là những người nghi ngờ rằng ông Hồ sẽ cố gắng thống trị cuộc họp bằng cách lót vào nó bằng những người đi theo của riêng mình. Để xoa dịu những mối quan tâm của họ, ông Hồ đề nghị ông Zhang rằng cuộc họp chỉ đơn giản được ghi nhận là một cuộc họp thảo luận của những đại diện ở nước ngoài của Đồng minh Hội. Ông Zhang tán thành, và tại một cuộc họp của ủy ban chấp hành của tổ chức, nó được đồng ý bao gồm những đại diện của tất cả các nhóm chính Việt Nam đang hoạt động ở phía nam Trung Quốc.

p275

Tại một bữa tiệc được tổ chức vào giữa tháng Ba, ông Zhang phê duyệt kế hoạch, và những người chống đối sự tham dự rộng của tất cả các nhóm yêu nước tại Đại hội không có sự lựa chọn, ngoài thừa nhận.

Cuộc họp thảo luận của những đại diện ở nước ngoài của Đồng minh Hội mở ra ở Liuzhou(pc 11) vào ngày 25 tháng Ba, 1944. Mười lăm đại biểu đã có mặt, bao gồm những đại diện từ ĐCSĐD,(pc 01) VNQDĐ,(pc 19) và đảng Đại Việt mạnh mẽ thuộc chủ nghĩa dân tộc. Nhiều đại biểu, bao gồm Phạm Văn Đồng và Lê Tồng Sơn, tham dự thay mặt cho Việt Minh, hoặc những tổ chức khác được kết nối với Đảng. Hồ Chí Minh phát biểu tại hội nghị, mô tả tình hình hiện tại bên trong Đông Dương và những hoạt động của Mặt trận Việt Minh, và khen ngợi mối liên hệ lịch sử chặt chẽ giữa dân tộc Việt Nam và Trung Quốc. Zhang Fakui tham dự phiên khai mạc và bế mạc và theo dõi những sự kiện như một con gà mái mẹ để tự tin chắc rằng cuộc họp thành công. Trước khi chấm dứt hội nghị vào ngày thứ 28, Đại hội thông qua hai nghị quyết và bầu ra một ủy ban điều hành gồm bảy thành viên và hội đồng kiểm soát. Hồ Chí Minh ban đầu được lựa chọn như là một thành viên thay thế của người trước đây, nhưng nhanh chóng trở thành một thành viên chính thức. Zhang Fakui(pc 12) biểu lộ sự chấp thuận của ông ta về những tiến trình bằng cách cung cấp cho những đại biểu sự ủng hộ tài chính bổ sung.23

Trong suốt nhiều tháng tới, Hồ Chí Minh tự ném mình vào trong những cố gắng để tiếp sinh lực trở lại cho Đồng minh Hội và chuẩn bị cho chuyến trở lại Việt Nam của riêng mình. Vào tháng Bảy, ông ta đi đến Nanning(pc 13) để nói chuyện với một số học sinh vốn đã được gởi bởi những cộng sự viên Việt Minh của mình để học tại học viện đào tạo ở phía nam Trung Quốc. Lúc bấy giờ, Zhang Fakui(pc 12) đã quyết định rằng Hồ Chí Minh là một lựa chọn tốt nhất để dẫn dắt phong trào kháng chiến Việt chống Nhật. Ông ta đã từng nói rằng trong khi ông Hồ chăm chỉ, những người khác thì lười biếng và bất cẩn, và cãi vã quá nhiều đến nổi họ làm ông ta đau đầu. Vào đầu tháng Tám, mặc những than phiền từ những người không-Cộng-sản, ông ta đã cho Hồ Chí Minh hoàn toàn tự do hành động và hứa với ông Hồ rằng ông Hồ sẽ có thể trở lại Việt Nam sớm. Đổi lại, ông Hồ vẽ ra một kế hoạch hành động để dẫn hướng những hoạt động của mình qua chuyến trở về nước. Trong số những thành phần qua kế hoạch của ông ta đang chuyển đến dân Việt Nam là sự quyết tâm của Trung Quốc thúc đẩy nền độc lập của đất nước dân Việt, sau khi phát triển và thúc đẩy Đồng minh Hội, chuẩn bị những điều kiện cho sự xâm nhập của quân đội Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam, và tăng cường cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc.

Trong sự hứa hẹn dâng hiến mọi cố gắng của mình để thúc đẩy sự phát triển của Đồng minh Hội, ông Hồ liệt kê những đảng phái và phe phái chính trị đó mà ông ta hy vọng sẽ thu hút vào biểu ngữ của hội: không chỉ là ĐCSĐD(pc 01) và những tổ chức quần chúng đa dạng của nó được bao gồm,

p276

mà còn là những đối thủ lâu năm của Đảng, VNQDĐ(pc 19) và thậm chí Đảng Lập Hiến, mà những thành viên của nó là những người tuyên truyền cho Đảng đó đã từ lâu bị đuổi ra như là những kẻ phản động và những con rối của người Pháp. Ông Hồ hứa hẹn mở ra hai khu căn cứ du kích ngay phía nam biên giới, và yêu cầu Tướng Zhang cung cấp cho ông ta vũ khí và một số tiền thích hợp để hỗ trợ ông ta trong mục đích đó, cũng như một lá thư riêng giới thiệu đến tổ chức yêu nước khác nhau ở Việt Nam và một bản đồ quân sự của đất nước. Ông Zhang đồng ý cung cấp cho ông Hồ một sổ thông hành được qua lại nhiều lần vào trong Trung Quốc, cũng như cung cấp thuốc men và tài chánh để sử dụng riêng, nhưng ông ta chỉ ra rằng việc ủng hộ tài chính bổ sung cho những hoạt động chống Nhật bên trong Đông Dương sẽ đòi hỏi sự suy xét sâu xa hơn.24

Trước khi chuyến khởi hành của ông ta từ Liuzhou,(pc 11) Hồ Chí Minh làm chuyến thăm cuối cùng đối với Tướng Xiao Wen, vị cố vấn của Đồng Minh Hội, là người đã từng là một hỗ trợ đáng kể cho ông ta trong những chuẩn bị cuối cùng của mình cho chuyến trở lại Việt Nam. “Chín mươi chín phần trăm điều gì mà tôi đã nói với bạn về Việt Nam và phong trào cách mạng Việt Nam là đúng sự thật,” ông ta quả quyết với chủ nhà Trung Quốc của mình. “Chỉ có một phần trăm mà tôi không nói với bạn.” Ông ta trước đó đã từng hứa với Tướng Zhang rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ không được thực hiện ở Việt Nam trong năm mươi năm.25

Vào thời điểm nào đó trong cuối tháng Tám, trong đoàn 18 học viên tốt nghiệp người Việt từ viện đào tạo của Zhang Fakui,(pc 12) Hồ Chí Minh rời khỏi Liuzhou(pc 11) và trở lại Đông Dương bằng đường qua Longzhou (i.e. Long Châu) và Jingxi.(pc 08)Để giảm khả năng là họ sẽ bị bắt chuyện bởi chính quyền an ninh địa phương, tất cả họ đều mặc đồng phục quân đội Quốc Dân Đảng. Tại biên giới, họ thay đổi thành trang phục bản xứ, nhưng vẫn gặp phải những khó khăn với những lính canh giữ biên giới, và ông Hồ phải van nài những quan chức địa phương ở Longzhou can thiệp và cho phép họ tiếp tục. Khi đến thị trấn biên giới Pingmeng, ông ta phải ở lại đó nhiều ngày trong một túp lều cỏ bên ngoài thị trấn để phục hồi sức khỏe mình và chuẩn bị những cuộc sắp xếp an ninh để hộ tống ông ta trở lại Pác Bó, nơi mà ông ta cuối cùng đến được vào ngày 20 tháng Chín 20.26

* * *

Trong suốt thời gian vắng mặt lâu dài của Hồ Chí Minh ở phía nam Trung Quốc, quá trình của cuộc chiến tranh ở Thái Bình Dương đã không thể thay đổi được đang chuyển hướng thuận lợi về khối Đồng minh. Kế hoạch ban đầu của Tổng thống Roosevelt tập trung cố gắng chủ yếu về quân sự vào sân khấu Trung Quốc-Miến Điện-Ấn Độ –một kế hoạch được dựa trên giả định rằng lực lượng quân sự của Trung Hoa Quốc Dân Đảng có thể đóng vai trò chính trong kết quả đạt được của cuộc chiến– đã bị loại bỏ bởi vì Washington càng lúc vỡ mộng vì sự thiếu thiện ý của Chiang Kai-shek(pc 03) dùng quân đội mình trong những hoạt động cuộc tấn công chống Nhật.

p277

Vào năm 1943, một chiến lược mới của Hoa Kỳ được hoạch định để tiến về hướng những hòn đảo nước nhà của Nhật trên khắp Thái Bình Dương đã bắt đầu cho thấy những dấu hiệu thành công. Lực lượng đồng minh đã chiếm đóng một số đảo Nhật bám giữ ở Thái Bình Dương, trong khi những đơn vị quân sự chịu sự chỉ huy của Hoa Kỳ. Tướng Douglas MacArthur đã từng tham gia vào chiến dịch nhảy-từng-hòn-đảo của Đồng minh từ New Guinea(pc 23) đến Philippines.

Trên lục địa Đông Nam Á, sự kiểm soát của quân đội Nhật khắp Đông Dương vẫn giữ được an toàn một cách tương đối, nhưng việc lật đổ chính phủ Vichy ở Pháp sau cuộc xâm chiếm Normandy vào tháng Sáu năm 1944 làm tăng thêm sự cám dỗ trong số những quan chức quân sự và dân sự Pháp ở Đông Dương chuyển hướng lòng trung thành của họ đối với phong trào Pháp Tự do dưới quyền của Tướng Charles de Gaulle, do đó khơi dậy những nghi ngờ ở Tokyo khi so sánh sự trung thành trong tương lai của chính quyền Toàn quyền Jean Decoux đối với sự liên minh với Nhật Bản. Chính quyền chiếm đóng của Nhật Bản bên trong Đông Dương gia tăng những cố gắng của họ để tranh thủ sự trung thành của dân cư địa phương đối với chế độ riêng của họ.

Trong khi đó, những cộng sự viên của Hồ Chí Minh đang cố gắng làm lan rộng căn cứ phong trào cách mạng khắp một phần phía bắc Đông Dương. Trong suốt năm 1942 và vào đầu năm 1943, những cán bộ Việt Minh bắt đầu xây dựng những căn cứ du kích và mở rộng sự hiện diện chính trị của mặt trận ở những tỉnh đồi núi vây quanh đồng bằng sông Hồng. Trong khi đó, chỉ thị của Ủy ban Trung ương tạo ra Mặt trận Việt Minh đã đến tay những Đảng viên ở xa về phía nam vào thời điểm nào đó trong năm 1942 hoặc 1943, và họ bắt đầu chịu khó xây dựng lại phong trào ở những tỉnh khác nhau dọc theo bờ biển miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long.

Những cán bộ khác của Đảng cố gắng xây dựng một “vùng an ninh” nhỏ cho Uỷ ban Thường vụ (được cấu thành bởi Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn Thụ), mà lúc bấy giờ được đặt ở Bắc Ninh, khoảng mười lăm dặm đông bắc Hà Nội. Sau cuộc khởi dậy Bắc Sơn, chính quyền Pháp đã bắt giữ phần lớn những cán bộ Đảng trong vùng, nhưng lần theo hướng quay về đồng bằng, ủy ban đã thành lập một “đơn vị kỹ thuật” nhỏ ở Hà Nội để bắt đầu công tác tuyên truyền trong phạm vi phong trào lao động ở đó. Đến cuối năm 1942, hơn 1.000 công nhân đã được thâu nhận vào Hội Cứu Quốc địa phương; những tổ chức tương tự đã được thành lập cho thanh niên và phụ nữ. Một đơn vị du kích nhỏ được thành lập tại Phi trường Gia Lâm, ngay phía bắc thành phố, như là một bước đầu tiên trong việc tạo ra khu vực an ninh cho ban lãnh đạo Đảng trong khu vực.

Từ căn cứ của nó ở các vùng ngoại ô Hà Nội, Uỷ ban Thường vụ đã đang tìm cách theo sát tình hình chung trong khu vực và thế giới xa hơn trong khi cũng thiết lập và duy trì thông tin liên lạc với tất cả các đơn vị Đảng khắp Đông Dương.

===========================================

Phụ Chú :
pc 01_ ĐCSĐD : Đảng Cộng sản Đông Dương.
pc 02_ ĐCSTQ : Đảng Cộng sản Trung Quốc.
pc 03_ Chiang Kai-shek : Tưởng Giới Thạch.
pc 04_ Chongqing : thành phố Trùng Khánh.
pc 05_ Zhou Enlai : Chu Ân Lai.
pc 06_ Sun Yat-sen : Tôn Dật Tiên.
pc 07_ Guilin : huyện Quế Lâm.
pc 08_ Jingxi : huyện Tĩnh Tây.
pc 09_ Debao : huyện Đức Bảo.

pc 10_ Tất cả những bài thơ được chép lại theo nguyên bản Hán Viết vả bản dịch của một số dịch giả Việt Nam, hơn là dịch lại từ tác giả.

pc 11_ Liuzhou : huyện Liễu Châu.
pc 12_ Zhang Fakui : Trương Phát Khuê.
pc 13_ Nanning : huyện Nam Ninh.
pc 14_ Guangxi : tỉnh Quảng Tây.
pc 15_ Guangdong : tỉnh Quảng Đông.
pc 16_ Kunming : quận Côn Minh.
pc 17_ CDvClHK : Cục Dịch vụ Chiến lược Hoa Kỳ (OSS: U.S. Office of Strategic Services).
pc 18_ CTtCtHK : Cục Thông tin Chiến tranh Hoa Kỳ (OWI: U.S. Office of War Information).
pc 19_ VNQDĐ : Việt Nam Quốc dân Đảng.
pc 20_ DvTgKn : Dịch vụ Trợ giúp Không nạn (AGAS: Air Ground Aid Services).
pc 21_ GBT : nhóm tình báo dân sự của Hoa Kỳ.
pc 22_ Yan’an : Diên An.
pc 23_ New Guinea : là hải đảo lớn thứ hai trên thế giới, sau Greenland là hải đảo phía tây gần Vương quốc Anh, bao gồm một diện tích 786.000 km 2. Nằm ở phía tây nam Thái Bình Dương, theo mặt địa lý nó nằm về phía đông của quần đảo Mã Lai Á, qua đó mà đôi khi nó được bao gồm như là một phần lớn quần đảo Ấn-Úc. Hải đảo nầy bị tách ra tử phía bắc nước Úc khi khu vực này được biết đến với tên gọi Eo biển Torres bị ngập lụt trong thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Tên gọi Papua từ lâu đã đồng hành với hòn đảo này. Về mặt chính trị, một nửa phía tây của hòn đảo bao gồm hai tỉnh của Indonesia : Papua và Tây Papua. Nửa phía đông hình thành lục địa của nước Papua New Guinea.

pc 24_ VNGpQ : Việt Nam Giải phóng Quân.

Leave a comment